Monday, 20 May 2024
blog

Cách Xưng Hô Thời Phong Kiến Việt Nam

B. Cách xưng hô của người Việt cổ rất phong phú:

Đời xưa, đặc biệt từ thế kỷ 17-18 trở về trước, người Việt Nam xưng hô với nhau như thế nào, hiện giờ còn là một vấn đề chưa được nghiên cứu, chưa được biết rõ. Có lẽ chính vì vậy mà trong các tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử, phim lịch sử của chúng ta ngày nay.. các nhân vật khi đối thoại với nhau, họ xưng hô rất tùy tiện theo ý chủ quan của nhà văn, nhà biên kịch với những ngôn ngữ không mang dấu ấn lịch sử, dấu ấn dân tộc.

Đã có không ít bạn bè bảo Tạ Ngọc Liễn thử tìm hiểu xem ông bà ta ba, bốn trăm năm trước, khi nói chuyện, trao đổi qua thư từ, các cụ xưng hô với nhau như thế nào. Và bà đã thử làm công việc này bằng cách đọc một số tác phẩm Nôm cổ thế kỷ 15, 16 và 17, 18, rồi nhặt ra những từ xưng hô ở các đoạn văn đối thoại trong những tác phẩm Nôm cổ đó. Kết quả hết sức thú vị, vì số lượng từ xưng hô của người xưa rất phong phú. Có những từ xưng hô thời xưa, nay đã mất hẳn trong ngôn ngữ giao tiếp hiện đại, nhưng cũng có những từ bây giờ vẫn dùng, song với ý nghĩa đã thay đổi. Phương pháp tác giả làm để khôi phục những từ xưng hô thời cổ ở nước ta, rất đơn giản, và bảo đảm chính xác, bởi vì chữ Nôm là chữ để ghi tiếng: Nói như thế nào, ghi lại đúng như thế. Những tác phẩm Nôm cổ bà sử dụng ở đây, chủ yếu là các cuốn: “Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (Nôm thế kỷ 15) do nhà nghiên cứu Hoàng Thị Ngọ giới thiệu, khảo cứu, phiên âm Đại Việt quốc thư, trong cuốn Gia phả họ Đỗ ở Đông Ngạc (Kẻ Vẽ), Từ Liêm, Hà Nội.

C. Những từ xưng hô phổ biến trong giao tiếp của người Việt Nam:

Dưới đây là những từ xưng hô phổ biến trong giao tiếp của người Việt Nam (vùng đồng bằng Bắc Bộ) ở các thế kỷ 15, 16, 17, 18:

– Cha gọi: Là áng

– Bác (là chú, bác như ngôn ngữ hiện đại).

– Mẹ (như ngôn ngữ hiện nay), nhưng mẹ còn gọi là nạ.

– Tôi, ta gọi là min, là mỗ, giáp.

– Nó, hắn gọi là nghĩ.

– Chúng bay gọi là phô bay.

– Chúng tôi, chúng ta gọi là phô min giáp.

– Tôi, tao, mày. Ta. Vợ. Bà phu nhân. Ngươi. Mi, chúng mi. Thiếp, chàng. Tiên sinh.

– Vua gọi là Đức hoàng thượng.

– Chúa gọi là Đức bề trên..

Qua những từ vừa thống kê trên chúng ta thấy đó là những từ xưng hô phổ biến của người Việt Nam thời cổ trong các tầng lớp xã hội từ vua, chúa, quý tộc đến dân thường, bao gồm các loại đại từ nhân xưng chỉ ngôi thứ nhất (số ít, số nhiều), ngôi thứ hai (số ít, số nhiều), ngôi thứ ba (số ít, số nhiều).

Như ở phần trên tác giả có nói, nhiều từ xưng hô phổ biến ở thế kỷ 15-16, nhưng ngày nay chúng đã biến khỏi đời sống ngôn ngữ mà chỉ tồn tại trong các văn bản Nôm cổ, người đọc muốn hiểu nghĩa thì phải nhờ lời chú giải của các nhà khoa học chuyên về văn tự cổ. Thí dụ, người Việt Nam ở thế kỷ 15-16 nói:” Chẳng biết ơn áng nạ “(Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh). Nhờ chú giải của các nhà khoa học, độc giả ngày nay biết áng nạ là cha mẹ. Và câu trên được diễn giải là” Chẳng biết ơn cha mẹ “. Hoặc đại từ nhân xưng tôi, ta, người thế kỷ 15-16 gọi là min, mỗ, giáp. Ngày nay từ min, từ giáp đã chết. Từ mỗ vẫn còn gặp trong ngôn ngữ đời sống. (Chẳng hạn, đôi khi trong chúng ta vẫn có người nói” Mỗ không thích uống rượu.. “)

Nếu thống kê những từ cổ xưng hô của người Việt Nam thế kỷ 15-18 rồi đối chiếu với những từ xưng hô trong giao tiếp ngày nay, chúng ta không thấy số từ người Việt Nam từng xưng hô với nhau ba, bốn thế kỷ trước vẫn đang có mặt trong đời sống ngôn ngữ hiện tại chiếm một tỷ lệ khá nhiều và các nhà văn, các tác giả phim truyện, kịch bản viết về lịch sử có thể khai thác, sử dụng một cách khá thoải mái. Thí dụ các từ xưng hô tao, mày, ta, ngươi, mi, chúng mi, thiếp, chàng, đứa kia, tiên sinh..

Tôi xin giới thiệu vài tư liệu cổ nói về cách xưng hô của một quan đại thần với vua Lê, chúa Trịnh thế kỷ 18 và cách xưng hô giữa Ngô Văn Sở với Ngô Thì Nhậm, hai nhân vật trụ cột của vua Quang Trung:

1. Trong cuốnGia phả họ Đỗ ở Đông Ngạc có ghi lại một số bài khải viết bằng chữ Nôm của Đỗ Thế Giai (một đại thần) dâng lên vua Lê chúa Trịnh và Đặng Thị Huệ. Trong đó Đỗ Thế Giai xưng là tôi và gọi vua Lê chúa Trịnh là Đức bề trên gọi Đặng Thị Huệ là Đức chính phi.

– Mỗi lần vua Lê, hoặc chúa Trịnh hỏi Đỗ Thế Giai về việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy, về đạo trị dân.. trong các tờ khải điều trần của mình, bao giờ Đỗ Thế Giai cũng mở đầu bằng câu: ” Tôi cẩn khải vâng lậy Đức bề trên.. “

– Khi Trịnh Sâm muốn cho Đặng Thị Huệ (được phong tuyên phi) tham dự chính sự thì Đỗ Thế Giai đã gửi tờ khải cho Đặng Thị Huệ để can ngăn. Mở đầu tờ khải, Đỗ Thế Giai viết: ” Tôi cẩn khải vâng lậy Đức chính phi muôn muôn năm.. “

2. Trong một bức thư Ngô Văn Sở gửi Ngô Thì Nhậm, viết bằng chữ Nôm, đoạn mở đầu:

” Quan Đại đô đức tước Chấn quận công (3) ; (4) ; (5) ; (6) ; ↓ ngự lãm rồi..”.

Đời xưa, đặc biệt từ thế kỷ 17-18 trở về trước, người Việt Nam xưng hô với nhau như thế nào, hiện giờ còn là một vấn đề chưa được nghiên cứu, chưa được biết rõ. Có lẽ chính vì vậy mà trong các tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử, phim lịch sử của chúng ta ngày nay.. các nhân vật khi đối thoại với nhau, họ xưng hô rất tùy tiện theo ý chủ quan của nhà văn, nhà biên kịch với những ngôn ngữ không mang dấu ấn lịch sử, dấu ấn dân tộc.Đã có không ít bạn bè bảo Tạ Ngọc Liễn thử tìm hiểu xem ông bà ta ba, bốn trăm năm trước, khi nói chuyện, trao đổi qua thư từ, các cụ xưng hô với nhau như thế nào. Và bà đã thử làm công việc này bằng cách đọc một số tác phẩm Nôm cổ thế kỷ 15, 16 và 17, 18, rồi nhặt ra những từ xưng hô ở các đoạn văn đối thoại trong những tác phẩm Nôm cổ đó. Kết quả hết sức thú vị, vì số lượng từ xưng hô của người xưa rất phong phú. Có những từ xưng hô thời xưa, nay đã mất hẳn trong ngôn ngữ giao tiếp hiện đại, nhưng cũng có những từ bây giờ vẫn dùng, song với ý nghĩa đã thay đổi. Phương pháp tác giả làm để khôi phục những từ xưng hô thời cổ ở nước ta, rất đơn giản, và bảo đảm chính xác, bởi vì chữ Nôm là chữ để ghi tiếng: Nói như thế nào, ghi lại đúng như thế. Những tác phẩm Nôm cổ bà sử dụng ở đây, chủ yếu là các cuốn: “do nhà nghiên cứu Hoàng Thị Ngọ giới thiệu, khảo cứu, phiên âm (2) ; ↓. Và một số văn bản Nôm thế kỷ 18 trong sách, trong cuốnDưới đây là những từ xưng hô phổ biến trong giao tiếp của người Việt Nam (vùng đồng bằng Bắc Bộ) ở các thế kỷ 15, 16, 17, 18:– Cha gọi: Là áng– Bác (là chú, bác như ngôn ngữ hiện đại).– Mẹ (như ngôn ngữ hiện nay), nhưng mẹ còn gọi là nạ.– Tôi, ta gọi là min, là mỗ, giáp.– Nó, hắn gọi là nghĩ.– Chúng bay gọi là phô bay.– Chúng tôi, chúng ta gọi là phô min giáp.– Tôi, tao, mày. Ta. Vợ. Bà phu nhân. Ngươi. Mi, chúng mi. Thiếp, chàng. Tiên sinh.– Vua gọi là Đức hoàng thượng.– Chúa gọi là Đức bề trên..Qua những từ vừa thống kê trên chúng ta thấy đó là những từ xưng hô phổ biến của người Việt Nam thời cổ trong các tầng lớp xã hội từ vua, chúa, quý tộc đến dân thường, bao gồm các loại đại từ nhân xưng chỉ ngôi thứ nhất (số ít, số nhiều), ngôi thứ hai (số ít, số nhiều), ngôi thứ ba (số ít, số nhiều).Như ở phần trên tác giả có nói, nhiều từ xưng hô phổ biến ở thế kỷ 15-16, nhưng ngày nay chúng đã biến khỏi đời sống ngôn ngữ mà chỉ tồn tại trong các văn bản Nôm cổ, người đọc muốn hiểu nghĩa thì phải nhờ lời chú giải của các nhà khoa học chuyên về văn tự cổ. Thí dụ, người Việt Nam ở thế kỷ 15-16 nói:” Chẳng biết ơn áng nạ “(Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh). Nhờ chú giải của các nhà khoa học, độc giả ngày nay biết áng nạ là cha mẹ. Và câu trên được diễn giải là” Chẳng biết ơn cha mẹ “. Hoặc đại từ nhân xưng tôi, ta, người thế kỷ 15-16 gọi là min, mỗ, giáp. Ngày nay từ min, từ giáp đã chết. Từ mỗ vẫn còn gặp trong ngôn ngữ đời sống. (Chẳng hạn, đôi khi trong chúng ta vẫn có người nói” Mỗ không thích uống rượu.. “)Nếu thống kê những từ cổ xưng hô của người Việt Nam thế kỷ 15-18 rồi đối chiếu với những từ xưng hô trong giao tiếp ngày nay, chúng ta không thấy số từ người Việt Nam từng xưng hô với nhau ba, bốn thế kỷ trước vẫn đang có mặt trong đời sống ngôn ngữ hiện tại chiếm một tỷ lệ khá nhiều và các nhà văn, các tác giả phim truyện, kịch bản viết về lịch sử có thể khai thác, sử dụng một cách khá thoải mái. Thí dụ các từ xưng hô tao, mày, ta, ngươi, mi, chúng mi, thiếp, chàng, đứa kia, tiên sinh..Tôi xin giới thiệu vài tư liệu cổ nói về cách xưng hô của một quan đại thần với vua Lê, chúa Trịnh thế kỷ 18 và cách xưng hô giữa Ngô Văn Sở với Ngô Thì Nhậm, hai nhân vật trụ cột của vua Quang Trung:1. Trong cuốncó ghi lại một số bài khải viết bằng chữ Nôm của Đỗ Thế Giai (một đại thần) dâng lên vua Lê chúa Trịnh và Đặng Thị Huệ. Trong đó Đỗ Thế Giai xưng là tôi và gọi vua Lê chúa Trịnh là Đức bề trên gọi Đặng Thị Huệ là Đức chính phi.– Mỗi lần vua Lê, hoặc chúa Trịnh hỏi Đỗ Thế Giai về việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy, về đạo trị dân.. trong các tờ khải điều trần của mình, bao giờ Đỗ Thế Giai cũng mở đầu bằng câu:– Khi Trịnh Sâm muốn cho Đặng Thị Huệ (được phong tuyên phi) tham dự chính sự thì Đỗ Thế Giai đã gửi tờ khải cho Đặng Thị Huệ để can ngăn. Mở đầu tờ khải, Đỗ Thế Giai viết:2. Trong một bức thư Ngô Văn Sở gửi Ngô Thì Nhậm, viết bằng chữ Nôm, đoạn mở đầu:

Post Comment