Tuesday, 21 May 2024
blog

Quang Duc Homepage – Vietnamese – English Buddhist library

Muốn dễ dàng phân biệt được
thế nào là người đáng kính thì căn cứ ở trong tự viện, người tăng sĩ giữ
trách nhiệm giảng dạy và hướng dẫn việc tọa thiền thường được gọi là
Thượng Tọa. Vai trò của Thượng Tọa không phải giảng dạy Kinh, Luận, Phật
Pháp mà chỉ giữ thuần có mỗi một việc là hướng dẫn sự tu thiền. Về việc tu
thiền có 2 phần: Lý thuyết và thực hành. Phần lý thuyết để chỉ rõ cách tu
ra sao, như cách ngồi, cách hít hơi thở, tập trung tư tưởng v.v…Phần
thực hành mới quan trọng. Trong lúc thực tập Thượng Tọa đi chung quanh
thiền đường để tuần canh những ai chăm chú và người nào lơ là không chuyên
tâm vào việc thiền quán và đến bên cạnh nhắc nhở bằng những cái đánh thức
tỉnh vào vai, vào đùi chẳng hạn, mỗi khi gặp một thiền sinh để tâm dỏng
ruổi ngoại cảnh hay đang ngủ gật do hôn ám gây ra.

Như vậy, Thượng Tọa là người
lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm trong việc tu tập. Một tăng sĩ khi thọ
giới Tỳ kheo tức đại giới vào lớp tuổi 20, sau khi đã nhận lãnh giới pháp,
Tỳ kheo ấy phải theo thầy hoặc tăng chúng an cư kiết hạ liên tục trong
suốt 10 năm và tỏ ra biết rành mọi nghi thức cũng như có một trình độ Phật
Pháp vững vàng mới có thể gọi được là Thượng Tọa. Vì thế, những tăng sĩ
lớn tuổi mới xuất gia, không gọi được là Thượng Tọa, vì công phu tu tập
chưa thuần thục và khả năng Phật Pháp cũng như tác phong của họ chưa đủ để
cho người khác kính mến

Thượng Tọa hiểu đúng nghĩa là
người gương mẫu ở trong một tôn giáo. Người ấy nói và thực hành giáo hạnh
của tôn giáo mình một cách nghiêm chỉnh mới xứng đáng được tôn xưng như
vậy.

 2.-
Hòa Thượng Là Gì ? Ai Được Tôn Xưng Danh Hiệu Nầy?  (^)

Hòa-Thượng (the
most venerable) dịch là “lực sanh” nghĩa là nhờ đời sống tâm
linh thanh tịnh của vị đó khiến cho đạo lực của giới tử (người
theo học) được phát sanh. 

Hòa-Thượng còn
có nghĩa là “thân giáo sư” tức là thầy gần gũi nhất của
mình để học hỏi, vì thế cũng có nghĩa là “y học” tức là
người mình nương tựa để học đạo. Hòa-Thượng còn là người
chứng minh tối cao trong hội đồng truyền giới Tỳ-kheo,
Bồ-Tát… 

Những Tăng sĩ
nào mới được tôn xưng là Hòa-Thượng ? 

Trong Phật giáo
vốn không có giai cấp, tuy nhiên, trong khi truyền giới để làm tăng
sự trang nghiêm cho buổi lễ cũng như gây được cho người thọ
giới một ấn tượng tốt và đặc biệt khó quên trong đời tu học
nên phải cung thỉnh một vị Hòa-Thượng lớn tuổi chứng minh.
Hòa-Thượng phải là người đã thọ giới Tỳ-kheo và có an cư
kiết hạ từ 20 năm trở lên. Những tăng sĩ tuy đã thọ giới
Tỳ-kheo, nhưng không sống theo tăng đoàn tu học mỗi năm 3 tháng vào
mùa mưa để tinh chuyên giới hạnh thì không đủ tư cách để tôn
xưng Hòa-Thượng. Hòa-Thượng khác với Thượng-Tọa ở tuổi đạo
và tuổi đời, vì nhiều kinh nghiệm tu hành và giới đức tinh
nghiêm hơn. 

Ở trong một xã
hội vô trật tự thì giới nhà tu cũng nảy sinh ra một hiện tượng
mới là những Hòa-Thượng trông có vẽ luộm thuộm thiếu tư cách,
thiếu tác phong đạo đức như phá giới và tự xưng là bậc thánh
có thể làm được phép nầy phép nọ để làm thay đổi dược
hoàn cảnh hay các hiện tượng thiên nhiên. Người tăng sĩ chân
chánh tu hành không cần đề cao về mình như thế. Giá trị đạo đức
và tư cách sống là thước đo đúng đắn nhất về một người. Kẻ
giả danh đạo đức và cao ngạo, tự tỏ ra khinh khi mọi người để
lừa bịp sự dễ tin của quần chúng, sẽ bị gán cho nhiều danh từ
không mấy tốt đẹp. 

Người Phật tử
chân chánh phải phân biệt rõ ràng để khỏi nhầm lẫn khi xưng hô
các thầy lãnh đạo tinh thần một cách quá đáng. 

3.-
Đại Đức Phải Đủ Những Đức Tánh Gì ?  (^)

Đại-Đức
(Reverend, Reverand) là người xuất gia tu hành đã thọ đủ 250 giới
Tỳ-kheo và tuổi từ 20 trở lên. Ở trong đạo, vị ấy là người
đã thông suốt được kinh luật, có khả năng ứng dụng Phật Pháp
trong quần chúng một cách linh động. 

Như vậy, danh từ
Đại-Đức chỉ người có cả phước lẫn huệ dầy đủ, xứng đáng
nhận lãnh vai trò lãnh đạo tinh thần cho hàng Phật tử tại gia. 

Khi Phật còn tại
thế, các Tỳ-kheo cũng xưng Phật là Đại-Đức Thế-Tôn hay bạch
Đại-Đức … mỗi khi có việc cần thưa thỉnh. Vì danh từ Đại-Đức
Thế-Tôn dùng để gọi chung cho các đức Phật về đời quá khứ,
nên cũng còn có nghĩa là mẫu người đáng kính và đáng tôn
trọng. Đại-Đức dùng để tôn xưng các giáo sĩ, các nữ tu thuộc
các tôn giáo khác mà không riêng gì Phật giáo. Ví dụ : La Reverende
Mère superieure : Đức Mẹ bề trên. 

Với ý nghĩa cao
đẹp đó, nếu những tu sĩ tuổi đời tuy cao, nhưng khi vào đạo chưa
thọ giới Tỳ-kheo cũng như chưa có khả năng thâm hiểu về đạo
Phật thì chưa đủ tư cách Đại-Đức được. Tuy nhiên, việc tôn
xưng còn tùy thói quen ở mỗi nơi như ở một số những ngôi chùa
không mấy đông Tăng chúng, thầy Bổn-Sư thu nhận đệ tử xuất gia
có khả năng về trình độ học thức ngoài đời, đã lớn tuổi
có tác phong đứng đắn cũng được bổn đạo chùa tôn kính vào
hàng Đại-Đức. 

Thật ra cách xưng
hô trong Phật giáo không mang tính cách chức vị, quyền uy như các
phẩm trật ngoài đời. Trong Phật giáo còn một tính cách hết sức
dân chủ là chúng Tỳ-kheo tự tôn trọng nhau về tuổi đạo hơn tuổi
đời, như trường hợp vị lớn tuổi hơn nhưng thọ giới Tỳ-kheo sau
người nhỏ tuổi cũng phải kính vị nhỏ tuổi kia như người đi
trước, bậc đàn anh. 

Khi dùng cách xưng
hô đối với nhà lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, chúng ta phải
thật thận trọng để khỏi phải hạ mình cách quá đáng và nhiều khi
tạo cho người đối tượng một vách ngăn cách biệt ! 

4.-
Hãy Phân Biệt Chú Tiểu, Điệu Hoặc Ông Đạo ?  (^)

Chú tiểu, điệu
hay ông đạo là những danh từ mà người tín đồ Phật tử
thường dùng để gọi những Tăng sinh mới xuất gia ở trong giai
đoạn bắt đầu thực hành Phật giáo. 

Miền Bắc Trung Nam
có một số từ khác biệt nhau, dĩ nhiên chỉ có người trong cùng
một miền mới biết rành mà thôi. Chú tiểu là danh từ người
miền Bắc hay dùng để gọi các chú bé mới xuất gia vào chùa tu,
đầu đã cạo tóc nhưng còn chừa lại một chỏm tóc dài ở phía
trước, còn điệu là tiếng của người miền Trung để gọi chú bé
vừa mới tập sự học Phật. Trong khi đó, ông đạo là tiếng
được dùng ở miền Nam cũng chỉ cho người mới xuất gia vào ở
chùa. Chú tiểu là thời kỳ chưa phải làm việc gì nặng nhọc cả,
ngay cả giới luật cũng chỉ có mới thọ 5 giới như người tu tại
gia mà thôi. Trường hợp các em bé ở chùa lâu năm, cho tới khi
thọ giới Sa-di, tín đồ bổn đạo vẫn gọi là điệu hoặc chú tiểu
như thường, vì quen miệng và thân thiết chăng ! Ở miền Bắc còn
có danh từ “Sư Bác” để gọi các tăng sinh đã thọ giới
Sa-di và đã lớn tuổi. Thay vì gọi Đại-Đức hay Thầy, còn danh từ
ông Đạo của người miền Nam gọi trong thời kỳ mà thầy tăng còn
tuổi nhỏ, mới thọ 10 giới Sa-di thật đàng hoàng và đúng
nghĩa. 

Một vài khác
biệt về cách xưng hô đối với người tăng sĩ trẻ tuổi là như
vậy, trên thực tế ngày nay mọi người đều hiểu được ý nghĩa
và cả cách dùng nữa. 

Biết được thói
quen của mỗi nơi, chúng ta mới dùng đúng cách và chính xác được
những danh từ trong Phật giáo rất phổ thông nầy. 

Cả ba cách xưng
hô trên cũng đều nằm trong cùng một ý nghĩa, do thói quen của mỗi
nơi mà tên gọi có khác. 

5.-
Đệ Tử Là Gì ?  (^)

Đệ tử là
người học trò, người nhỏ tuổi hơn tự xưng với người lớn
tuổi và những bậc thầy dẫn đạo có đủ tư cách chỉ dẫn cho mọi
việc để học hỏi. 

Trong Phật giáo,
danh từ đệ tử được dùng chỉ tất cả mọi người theo học hỏi
giáo lý giải thoát và tôn xưng đức Phật là bậc thầy sáng
suốt, kẻ chỉ đạo đúng đắn để nương theo. Ở các bài Sám
Nguyện thường hay mở đầu bằng tiếng đệ tử như : 

Đệ tử chúng con
từ vô thỉ 

Gây bao tội ác
bởi lầm mê. 

Đắng trong sanh tử
đã bao lần, 

Nay đến trước
đài vô thượng giác … 

Hoặc : Đệ tử
hôm nay gặp ngày Khánh-Đản, hay : Đệ tử kính lạy đức Phật
Thích-Ca v.v… 

Như thế, chữ đệ
tử mang một ý nghĩa bao quát và có hàm ý rằng y như pháp mà
thành tựu được việc tu hành của kẻ khao khát muốn tìm về chân
lý của Đức Phật. Đức Phật có đủ mọi đức tính : Từ bi, bình
đẳng, bao dung … đáng để cho chúng ta nương theo học hỏi, cũng như
người học trò quý mến thầy và tự nhận mình là đệ tử. Không
những trong phạm vi Phật giáo tiếng đệ tử được dùng mà ngay
trong các lãnh vực sinh hoặc ngoài đời cũng vẫn áp dụng nói một
cách tự nhiên. 

Các nhà mô phạm,
những bậc thánh nhân, các giáo chủ của tôn giáo là thước đo
giá trị đạo đức cho đời sống tinh thần đúng đắn nhất mà
người theo học là kẻ đến sau, như là học trò vậy. 

6.-
Nam Mô Có Nghĩa Là Gì ? Và Tại Sao
Trước Danh Hiệu Phật VÀ Bồ Tát Đều Có Tiếng Nầy ?  (^)

Nam-mô vốn là
tiếng Phạn đã quen dùng trong giới Phật tử và trở nên phổ
thông nên ít có ai để ý tìm hiểu ý nghĩa. Mỗi khi chúng ta niệm
chữ Nam-mô, thiết tưởng nên biết rõ để việc làm nầy thêm
phần lợi ích thiết thực. 

Nam-mô tiếng
Trung-Hoa dịch ra thành sáu nghĩa như : Cứu ngã, độ ngã, quy mạng,
đảnh lễ, sám hối, độ thoát ; tức là chúng ta đang sa ngã vào
cõi đời trần tục phải cầu chư Phật, Bồ-Tát cứu độ ra khỏi
cảnh khổ, sự mê lầm để nhờ đó ta nương về với các đấng
giác ngộ, học theo hạnh từ bi và nguyện với lòng thành lễ lạy
cầu được phước đức cho chính ta và những người liên hệ. Vì
tin tưởng vào sự nhiệm mầu ấy, chúng ta thành kính, nguyện đem
lòng thành hướng về với chư Phật, Bồ-Tát để học hỏi, nương
tựa theo những lời giáo huấn sáng suốt làm kim chỉ nam cho việc tu
hành hầu xây dựng một đời sống tốt đẹp. Do đó, khi đi
đường, lúc vào chùa gặp một vị Tăng Ni, chúng ta thường chắp tay
niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật. Người đối diện cũng đáp lễ lại bằng
câu niệm ấy. Cách chào hỏi của người Phật tử, thay vì bắt tay
như người Tây-phương mỗi khi gặp nhau, lại dùng câu niệm Phật,
thật đầy đủ ý nghĩa. 

Nói khác hơn,
Nam-mô là tiếng xưng hô dùng cho Phật, Bồ-Tát và các bậc tu hành
đã giác ngộ để tỏ ra cung kính, tán dương mà người học Phật
luôn luôn có tâm niệm muốn noi dấu chân Phật. 

7.- Cho
Biết Tứ Hoằng Thệ Nguyện Là Gì ?  (^)

Tứ hoằng thệ
nguyện là bốn lời phát nguyện rộng lớn của người Phật tử
để cầu cho tất cả chúng sanh đạt đến đạo Vô-thượng
Bồ-đề. 

Bốn điều thệ
nguyện đó như sau : 

– Chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ : Chúng sanh có muôn loài, xin thề nguyện cứu
độ tất cả. 

– Phiền não vô
tận thệ nguyện đoạn : Phiền não không cùng tận xin nguyện đều
dứt sạch. 

– Pháp môn vô
lượng thệ nguyện học : Các pháp môn có nhiều và sâu rộng như
biển cả mênh mông nhưng người tu học nguyện học hỏi để đạt
tình thấu lý. 

– Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành : Cầu mong tu hành đạt đến giác ngộ,
giải thoát an vui. 

Đây là phần
tụng trước khi hồi hướng (trong các khóa lễ kỳ an hay kỳ siêu)
và người hành trì nguyện đem tất cả phước lành đã tạo
được, hướng về tất cả nhân loại chúng sanh, mong cho đều được
hạnh phúc, an vui. Xin gợi ý, bốn lời phát nguyện nên dịch sang vần
để dễ dàng thuộc và nhớn lúc tụng đọc : 

Chúng sanh độ
khắp xa gần 

Não phiền rũ
sạch lòng trần nhẹ lâng 

Pháp mầu số
lượng chuyên tâm 

Đạo Phật vô
thượng thậm thâm nguyện thành. 

Kinh điển của
Phật giáo rất nhiều không kể xiết, mỗi lời, mỗi câu đều mang
một ý nghĩa rất sâu sắc. Khi đã hiểu được trọng vẹn mạch ý
của cả bài, lúc tụng đọc chúng ta mới thấy được lý thú. 

8.-
Thất Chúng Trong Phật Giáo Là Thế Nào ?  (^)

Đệ tử của Phật
gồm 2 thành phần là xuất gia và tại gia mà trong đó còn chia ra
thành bảy chúng khác nhau. 

Đoàn thể xuất gia
gồm có 5 chúng và Phật tử tại gia có 2 chúng như sau : 

Xuất gia gồm : Sa-di
(nam giới thọ 10 giới căn bản) Sa-di-ni (nữ giới), Tỳ-kheo (nam
giới thọ 250 giới và phải trên 20 tuổi), Tỳ-kheo-ni (nữ giới 348
giới) và Thức-xoa-ma-na (nữ giới xuất gia phải thọ 6 giới
Thức-xoa trước khi thọ giới Tỳ-kheo-ni). Còn thành phần của Phật
tử tại gia có 2 chúng là Ưu-bà-tắc hay Cận-sự-nam, tức nam giới
Phật tử thực hành Phật giáo tại gia và Ưu-bà-di hay Cận-sự-nữ
hoặc thiện nữ nhơn, để chỉ cho người Phật tử đã quy y Tam-Bảo
và giữ năm giới cấm. Tuy nhiên, gọi 6 chúng đệ tử Phật cũng
không sai vì giới Thức-xoa-ma-na chỉ dự bị cho giới Tỳ-kheo của bên
Ni mà thôi. Dù tu tại gia hay xuất gia, người Phật tử vẫn làm
được việc Phật sự. Hai thành phần đệ tử của Phật bày hợp
nhau lại để chung sức chung lòng phát triển ngôi nhà Phật giáo.
Một đời vua Asoka của Ấn-Độ sau Phật Niết-Bàn 300 năm, vua
Trần-Thánh-Tông của Việt-Nam … là những vị Bồ-Tát hiện thân cư
sĩ tu tại gia đã tạo nên cho Phật giáo những công trình thật vĩ
đại, đáng ghi nhớ đời đời. Do đó, việc duy trì và phát triển
Phật giáo là vai trò của người xuất gia và bổn phận của người
Phật tử tại gia. 

Người tu sĩ hay cư
sĩ Phật tử cũng đều là đệ tử của Phật nên việc hợp lực
nhau để làm việc Phật sự thì không còn lãnh vực tại gia hay xuất
gia mà tùy thuộc vào khả năng, thiện chí và phương tiện thực
hiện. 

9.-
Hãy Giải Thích Ý Nghĩa Của Cổng Tam Quan Chùa ?  (^)

Ở những ngôi
chùa cổ phía trước chánh điện, nơi mặt tiền, cách một cái sân,
nơi lối ra vào có một cửa chính chia ra làm 3 lối đi gọi là cửa
tam quan. 

Tam quan là 3 cửa
hay 3 lối đi dẫn vào phía bên trong chùa. Chính giữa rộng, hai lối đi
hai bên thường hẹp, chỉ đủ cho một người vào lọt. Cổng chỉnh
thường đóng kín lại, mỗi khi có lễ lạc gì lớn mới được mở
ra để cho khách vào chùa chiêm bái. 

Ngày xưa, những
ngôi quốc tự do nhà nước lập ra, cổng chính dành riêng cho các
quan chức cao và vua chúa mỗi khi đến lễ Phật, còn dân chúng và
hàng quan lại cấp nhỏ chỉ được phép vào chùa bằng lối đi hai
bên cổng mà thôi. 

Những ngôi chùa
lớn có lối kiến trúc cổng tam quan cũng đồ sộ để cho được
cân xứng, mỹ thuật. Những ngày thường nhật cửa tam quan thường
đóng và chỉ mở một cổng bên phía tay phải để cho khách vào ra
lễ Phật, ngoạn cảnh. Cổng chùa không lập quá xa với chánh điện
thờ Phật, nghĩa là tùy theo phạm vi rộng hẹp của mỗi nơi và cổng
tam quan chỉ cách điện Phật một cái sân thôi. Những ngôi chùa ở
trên núi cao, cũng có lối kiến trúc cổng tam quan gần với chánh
điện mà không quá xa, cách biệt ở dưới chân núi. 

Ngày nay, việc xây
chùa và cổng chùa không còn giữ được theo lối kiến trúc thuần
túy mỹ thuật cổ điển nữa mà đã bị pha trộn theo đủ lối, đủ
kiểu Âu Á lẫn lộn. Do đó danh từ cổng tam quan không còn mấy
thông dụng cũng như ít có người biết đến, như trường hợp
những ngôi chùa trong các đô thị theo hình thức mới nầy. 

Nếp sinh hoạt tăng
viện thay đổi cho phù hợp với thời đại, nhưng hình thức cổ
điển của cổng chùa và mái chùa tượng trưng cho dân tộc tính cần
được duy trì thì hay hơn cả. 

 10.- Mười Hiệu Xưng Tán Đức Phật Gồm Có Những
gì ?  (^)

Phật thường đầy
đủ phước đức, tướng mạo trang nghiêm với 80 vẽ đẹp và 32
tướng tốt, xứng đáng là bậc thầy của nhân loại. Mười hiệu
xưng tán đức Phật là : 1- Như-Lai, 2- Ứng-cúng, 3- Chánh-biến-tri, 4-
Minh-hạnh-túc, 5- Thiện-thệ, 6- Thế-gian-giải, 7- Vô-thượng-sĩ, 8-
Điều-ngự-trượng-phu, 9- Thiên-nhơn-sư, 10- Phật, Thế-Tôn. 

Tại sao phải dùng
10 hiệu khác nhau để xưng tán đức Phật ? Đức Phật ra đời vì
muốn chỉ bày cho chúng sanh tìm thấy Phật tánh của mình do công phu tu
tập để đạt đến giác ngộ hoàn toàn như Phật. Như hoa sen trong bùn
lầy mà vẫn có mùi thơm ngào ngạt. Đức Phật cũng như thế, dù
ở trong cõi đời khổ đau mà vẫn giác ngộ nên đáng ca tụng là
bậc thầy của cả trời và người. Chữ Như-Lai có nghĩa là thừa
cái đạo như thật để chứng quả Chánh-đẳng Chánh-giác nên gọi
là Như-Lai. Ứng-cúng tiếng Phạn là A-la-ha tức là thọ nhận của
trời và của người cúng dường. Chánh-biến-tri là giác ngộ.
Minh-hạnh-túc là do tu tập ở túc mạng nhiều đời mà tỏ ngộ.
Thiện-thệ dịch là Tu-già-đa tức là lấy trí huệ sáng suốt chứng
được Niết-Bàn. Thế-gian-giải dịch là Lộ-già-bị tức giải bày
rõ về pháp “Hữu” và “Vô” ở thế gian.
Vô-thượng-sĩ, tiếng Phạn gọi là A-nậu-đa-la tức giải thoát mọi
ràng buộc. Điều-ngự-trượng-phu : Điều phục mọi ý niệm xấu ác
dũng mãnh không sợ sệt. Vì Đức Phật là bậc thầy soi đường cho
cả trời và người và hiệu sau cùng để tán tụng bậc trí giác
toàn vẹn được đời chiêm ngưỡng. 

Ở bài kinh sám
hối có 10 hiệu Như-Lai để tán dương công đức tu hành của Đức
Phật và người học Phật nguyện học hành theo các công đức lành
ấy. 

11.- Lục Độ Là
Những GÌ ?  (^)

Lục độ hay 6 pháp
độ được người qua khỏi bể sanh tử mà hàng Bồ-Tát chọn làm
pháp môn tu tập là : 

– Bố thí : Ban cho
kẻ khác niềm an lạc. Không cứ cho đồ vật mới gọi cho mà có
thể cho cả lời nói, cử chỉ để an ủi người cô thế, tức là ta
đã thực hiện được hạnh bố thí rồi. 

– Trì giới : Giữ
gìn giới cấm, trước là để răn mình làm điều phi pháp, sau để
làm gương cho người khác noi theo. 

– Nhẫn nhục : Nhịn
chịu mọi nghịch cảnh không có nghĩa là người dại dột mà để thể
hiện sức cố gắng của người mà tâm địa đã đạt được một
trình độ cao mới thực hiện nổi. 

– Tinh tấn : Tiến
tới không lùi sụt hay ngừng nghỉ khi bắt tay vào làm một việc gì
khó khăn. 

– Thiền định :
Dùng con mắt quan sát, suy tư trong yên tịnh và lắng lòng để gạn
lộc phiền não nơi tâm. 

– Trí huệ : Là
sự nhận thức đúng, suy đoán lanh lợi, như con dao sắt cạnh của
mỗi người dùng cắt mọi ràng buộc, chi phối trong đời sống nội
tâm. Trí huệ cũng còn là sự nghiệp hành đạo của người tu hành
(duy huệ thị nghiệp). 

Người nào thực
hành đúng theo phép 6 độ một cách trọn vẹn tức là thể hiện
được phần não hạnh Bồ-tát trong đời nầy. 

12.-
Tứ Vô Lượng Tâm Là Gì ?  (^)

Bồ-Tát tu hành
pháp bố thí trong 6 độ (bố-thí, trì-giới, tinh-tấn, nhẫn-nhục,
thiền-định, trí-huệ) và Tứ-vô-lượng-tâm là một trong muôn hạnh
lành. 

Tứ-vô-lượng-tâm
là tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả, tức là lòng quảng đại,
thương xót, vui thuận và tha thứ là bốn yếu tố cần thiết làm tư
lương cho việc tu tập tâm từ bi thường gắn liền với nhau, nhưng
trong ý nghĩ có sự khác biệt rất xa. Vì cái tâm rộng khắp không
lường có thể làm Phật, Thánh Hiền, ma quỷ cũng từ đó phát
sanh. Để diễn tả cái tâm, cổ nhân có tác bốn câu thơ như vầy

Tam điểm như tinh
tượng 

Hoành câu tợ
nguyệt tà 

Phi mao tùng thử
đắc 

Tác Phật giả do
tha. 

Dịch : 

Ba chấm như vì
sao 

Cong vòng vành
trăng khuyết 

Lông sừng từ
đây đội 

Làm Phật cũng do
tâm. 

Tâm tạo ra sơn hà
đại địa, thế giới muôn loài, cho nên người tu cần phải vận
dụng hết lòng ngay thật của mình vào việc tu niệm để giúp đỡ cho
kẻ khác. Đây là hạnh nguyện độ sanh mà hàng Bồ-tát thường xả
thân làm việc thiện. 

Bốn thứ tâm
lành rộng lớn chỉ có được khi nào người Phật tử biết hy sinh
cả thân mạng để làm việc lợi ích cho kẻ khác mới có
được. 

13.-
Chùa Và Tự Viện Khác Nhau Ra Sao ?  (^)

Chùa là tiếng
rất phổ thông ai cũng biết cả. Chùa do chữ Tự (pagoda hay temple) có
từ thế kỷ thứ 2 thứ 3 Tây-lịch. Các ngài Ca-Diếp Ma-Đằng và
Trúc-Pháp-Lan từ Ấn-Độ qua Giao-Châu ở Hồng-Lô tự dịch kinh
Tượng-Đầu-Báo-Nghiệp Sai-Biệt và kinh Tứ-Thập-Nhị-Chương. 

Chùa và Tự Viện
khác nhau ra sao ? Cho tới nay cả 2 danh từ đều được dùng lẫn lộn,
ít có ai phân biệt được chỗ khác nhau. Tuy nhiên, hiểu theo văn
hiện đại người ta ưa dùng chữ Tự Viện hơn Chùa, nhất là trên
các văn thơ về phương diện ngoại giao. Chữ Tự Viện ngoài ra, còn
hàm ý rằng nơi rộng rãi khoảng mát, do một Tăng sĩ trẻ tuổi trụ
trì. Nói chung, Chùa hay Tự Viện đều chỉ có một người trông coi.
Vị nầy là Viện-chủ, tức là người giữ mối giềng thể thống
của tông môn mà duy trì mạng mạch của Phật giáo cho các thế hệ
kế tiếp. 

Chùa đối với
người Việt-Nam có tín ngưỡng là nơi nương tựa tinh thần cần
thiết không thể thiếu được. Nó cũng như chất dinh dưỡng cho các
mầm non của các lớp tuổi trẻ mai sau. Chùa vì thế rất quen thuộc
đối với người dân quê, như gắn liền vào đời sống của họ.
Trong khi đó, ở thành thị được nhắc tới danh từ Tự Viện hơn
chùa. Nói một cách khác, theo thói quen người ta dùng Chùa hay Tự
Viện, nhưng chữ Tự Viện có phần văn vẽ hơn nhiều. 

Chùa là hình ảnh
quen thuộc khó quên trong đời người. Dù có đi đâu xa, ngôi chùa
làng vẫn như còn ngự trị nơi tâm tư của người lữ thứ. Do ý
nghĩa nầy, các nhà thơ, nhà văn không tiếc lời để diễn tả nỗi
niềm cảm mến cảnh chùa của mình thật đậm đà và chan chứa tình
nước tình quê. Đây ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn-Bính bộc lộ ý nghĩ
chân thành nầy qua mấy câu thơ sau : 

Quê tôi có gió
bốn mùa, 

Có trăng giữa
tháng, có chùa quanh năm. 

Sương khuya, gió
sớm, trăng rằm, 

Chỉ thanh đạm thế,
âm thầm thế thôi. 

Mai nầy tôi bỏ
quê tôi, 

Bỏ trăng, bỏ gió
chao ôi bỏ chùa ! 

Chùa hay Tự Viện
là nơi công cộng cho tín đồ làm chỗ sinh hoạt vào những dịp lễ
vía hay sám hối và hội họp v.v… Như vậy, nơi nào có vị Sư trụ
trì, có tổ chức đoàn thể như gia đình Phật tử, ban-hộ-niệm,
ban-tương-tế xã-hội … đều được gọi là chùa cả. 

Người Việt hải
ngoại ngày nay đều lập ra các hội Việt kiều Phật tử, phần nhiều
lại thiếu thầy lãnh đạo, nhưng các hội nầy là bước đầu trong
việc lập các ngôi chùa trong tương lai. 

14.-
Thiền Thất Hay Thảo Am Là Gì ?  (^)

Phật giáo
Thiền-tông rất quen thuộc với danh từ thiền thất hay thảo am. Vậy,
ý nghĩa của nó là gì ? 

Thiền thất là
nhà thiền nơi mà vị Tăng sĩ lập ra để tu tập, nhưng lấy việc tọa
thiền làm chánh. Thiền thất vì thế không lớn, chỉ vừa đủ một
người tu tập thôi. Bên trong thiền thất, thiền sinh thường không
trang hoàng gì nhiều, ngoài những hình ảnh và cách tu thiền như
mười bức họa chăn trâu (thập mục ngưu đồ), hình Tổ Bồ-Đề
Đạt-Ma, hình con trâu đen hoặc trắng có một người dắt trong tư thế
đã hàng phục được trâu, tượng trưng cho tâm hành giả cũng
được chế ngự mọi phiền não do công tu luyện mà thành. Bên
ngoài thiền thất thường có sân rộng với cây cảnh mát mẻ, nhất
là vườn có trồng hoa cho bông đơm nở tốt tươi để làm trợ
duyên cho việc tu thiền. 

Thảo am không là
danh từ Phật giáo thuần túy, vì những nhà thơ văn muốn có một
đời sống biệt lập với mọi người, cũng như cần sự yên tỉnh
để làm việc viết lách, đọc sách nên lập ra một túp lều tranh nho
nhỏ xinh xắn để sinh hoạt trong đó. Thảo am vì thế thường không
rộng mà chỉ đủ cho một người ở để việc sinh hoạt về lý trí
được yên tỉnh, không bị hoàn cảnh chung quanh chi phối. 

Ngày nay chúng ta
không tìm thấy thảo am nào ở trong xã hội văn minh vật chất nầy
cả, một phần do cuộc sống hiện tại đã bị nhiễm độc bởi tiếng
động cơ, hơi độc của chất hóa học phóng ra khắp nơi trong vũ trụ,
một phần tâm thức con người cũng đã bị mất thăng bằng giữa
đời sống vật chất và tinh thần, nên ít ai nghĩ tới việc tìm về
nơi núi sâu rừng thẳm để luyện trí chăng ? Song song với danh từ
thảo am còn có “cốc” cũng giống như thiền thất, do các
thiền sinh lập để làm nơi tham thiền, biện đạo. 

Thiền thất, thảo
am, cốc là những nơi dành riêng cho người nào có một tâm thức
sáng ngời và muốn sống gần gũi với thiên nhiên để phát triển
tinh thần trong phạm vi tu tập rất thích hợp. 

15.- 
Chánh Điện và Đại Hùng Bảo Điện Khác Nhau Như Thế Nào ?  (^)

Chánh điện
(sanctuary) là nơi tôn trí, thờ phụng hình tượng Phật, Bồ-Tát
thường được xây ở gian giữa của ngôi chùa. 

Khách từ ngoài
vào cổng chính bước vào chùa liền thấy ngay được hình ảnh đức
Phật tọa trên tòa sen trong tư thế bán già hay kiết già đang nhìn ra
hướng sân chùa. Chánh điện chữ Hán đã được dùng theo nghĩa
tiếng Việt tức là điện thờ Phật. Nếu gọi một cách thành kính
trang nghiêm là Đại-hùng-bảo-điện, điện báu thờ đức đại
hùng, tức là đức Phật có đại-hùng, đại-lực, và
đại-từ-bi. Chữ bảo là báu như ngọc ngà châu báu, trong ý nghĩa
của 3 ngôi báu : Phật, Pháp, Tăng, tức là Tam-Bảo được thờ
trong chùa vậy. Mỗi khi ở ngoài vào lễ Phật, ta gọi là lên chánh
điện, ít người gọi điện đại hùng, vì danh từ chỉ dùng để
khắc bản trước điện thờ Phật. Trong ý nghĩa đó, người
Nhật-Bản không gọi điện thờ Phật là chánh điện mà gọi là
Hondo (bổn đường). Hondo có nghĩa là gian nhà chánh giữa, cũng
đồng nghĩa với chữ chánh, trong nghĩa của chữ chánh điện
vậy. 

Chánh điện có
lối trang trí như thế nào còn tùy thuộc vào khả năng tài chánh
của mỗi ngôi chùa và theo khiếu thẩm mỹ của người lập nên
nữa. Có nhiều ngôi chánh điện chúng ta mới bước vào đã cảm
thấy tâm trí nhẹ nhàng thư thái như trút bớt được những phiền
não ưu tư của cuộc sống phức tạp ngoài đời. Việc tôn trí chánh
điện cho được trang nghiêm cũng thu hút nhiều người quy về với
chánh pháp của Phật Tổ … Trong điện thờ Phật thật đơn giản và
chỉ một tôn tượng của đức Thích-Ca, hay Bồ-Tát Quán-Thế-Âm
hoặc tượng Phật A-Di-Đà mà thôi. 

Người hành trì
Phật giáo nhờ sự mới thấu đạt lý, cho nên ngôi chánh điện
phải thật gọn gàng, nhưng không kém phần trang nghiêm và mỹ
thuật. 

16.-
Bát Công Đức Thủy Là Thế Nào ?  (^)

Cảnh giới
Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà an vui thanh tịnh mà ở đó, theo kinh
A-Di-Đà, bốn mùa cây cối xanh tươi và nhạc trời tấu khúc, chim
hót líu lo vang lừng suốt ngày đêm, có ao thất bảo, trong ao chứa
nước đủ 8 thứ công đức. Nước 8 thứ công đức đó là

1.- Nước lóng
trong 

2.- Lạnh mát không
cáu bợn 

3.- Vị ngọt thơm
ngon 

4.- Uống vào tâm
hồn nhẹ nhàng khoan khoái 

5.- Thấm nhuần 

6.- An hòa 

7.- Nước uống
vào trừ được đói khát 

8.- Nước uống
vào các căn lành đều tăng trưởng. 

Một đoạn trong kinh
Di-Đà nói về nước tám công đức như sau : “Hữu thất bảo
trì, bát công đức thủy sung mãn kỳ trung trì để thuần dĩ : Kim sa
bố địa, tứ biên giai đạo kim ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não,
nhi nghiêm sức chi …” 

(Có ao bảy báu
với nước tám thứ công đức đầy đủ. Trong đáy ao thuần toàn
cát vàng trải ra. Mặt đất và quanh bốn bên lát toàn vàng bạc,
lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, ngọc mã-não để trang sức cho cảnh Tịnh-độ
…) 

Cõi Tịnh-độ do
tâm tạo nên, vì thế, những gì diễn tả trong kinh Di-Đà đều là
điều có thật. Ngoài ra, con người ở đó được sống lâu, không
già, không bịnh, không chết. Món ăn, thức uống của người ở
cảnh giới Cực-Lạc toàn bằng thiền định mà được no đủ vui say
nên không cần tới thức ăn. 

Ở đời, chúng ta
gắng công tu hành cho tinh tấn và niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà
nhất tâm tới khi chết được sanh vào thế giới Cực-Lạc là bi
nguyện của đức Phật A-Di-Đà. 

 17.-
Y Phục Thường Dùng Của Tăng Sĩ Có Chia Ra Thứ Loại Nào Không
?  (^)

Trong Phật giáo
không có giai cấp và chức vị song giới hạnh và đạo đức được
chú trọng tới nhiều hơn. Y phục cũng chia ra làm 4 loại như sau : 

* Áo dài 5 thân :
Áo gồm 5 mãnh vải ráp lại và có 3 hột nút cài chéo trước
ngực từ cổ bên trải qua nách bên phải. Loại áo dài nầy dùng
cho các em bé mới tập sự xuất gia ở chùa và tuổi từ 8-15 còn
trong thời kỳ hành điệu (chú tiểu) 

* Áo nhật bình :
Áu mầu nâu hoặc lam mà trước ngực có một mãnh vãi cắt thành
hình chữ nhật có chiều dài từ ngang vai xuống tới trên rốn độ
vài phân (2cm) với bề dài 25cm x 10cm ngang. Loài áo nầy dùng cho
thầy nào đã thọ 10 giới, với số tuổi từ 16-20. Đặc điểm là
một hàng nút từ ngực xuống tới chân gồm 5 hoặc 7 hột. 

* Áo tràng : Áo
có tràng vắt ngang qua phía trước ngực từ vai bên trái qua nách
bên phải và 3 hột nút cài bên nách phía tay phải. Các thầy
Tỳ-kheo (Tăng đã thọ 250 giới) thường mặc loại áo tràng khi đi
đường và lúc giảng đạo. 

Dù y phục có
phân ra như thế, nhưng một số các thầy lớn tuổi vẫn thích mặc áo
nhật bình hơn, nhất là khi tiếp khách và lúc làm việc trong
chùa. 

* Áo vạt hò :
Loại nầy ngắn và trông giống như áo bà ba của người nông dân
Việt-Nam. Tuy hình thức có phần khác hơn áo bà ba, vì áo của
người thường có hàng nút thẳng từ cổ xuống giữa bụng, trong
khi đó áo vạt hò thường dài tới quá gối lại có hàng nút
nằm phía tay phải gần bên hông tay phải. Áo vạt hò ngắn gọn rất
tiện lợi lúc làm việc, khi nhổ cỏ, tưới hoa trong vườn
chùa. 

Đại loại về y
phục của người tu sĩ Phật giáo được phân ra như thế để chúng
ta dễ nhận thức. Còn riêng về phẩm phục lúc hành lễ lại có
hình thức khác hơn nhiều. 

18.- 
Y Phục Của Tăng Sĩ Về Mầu Sắc Tại Sao Có Sự Khác Nhau ?  (^)

Y phục của hàng
tăng sĩ mầu sắc tuy có nhiều song mầu thông dụng nhất vẫn là mầu
vàng cam. Chính đức Phật Thích-Ca vẫn thường mặc chiếc y vàng để
đi du thuyết hóa độ chúng sanh khi Ngài còn tại thế. 

Mầu sắc y phục
được thay đổi theo mỗi quốc gia để được phù hợp với phong
tục, địa lý của từng nơi, do đó người Tăng sĩ Phật giáo không
hẳn bắt buộc phải theo đúng một khuôn mẫu cố định nào. Tuy nhiên,
trên hình thức chúng ta phân biệt được hai hạng tu sĩ : Quấn y
vàng khi họ đi đường và một số khác mặc y phục mầu đà hoặc
mầu lam. Khi ra đường đắp y mầu vàng là hình thức của người tu
theo phái nguyên thủy Phật giáo hay phái Therevada. Như ở các nước
Tích-Lan, Thái-Lan, Cambodia, Lào một số chư Tăng thực hành Phật giáo
theo hạnh khất thực nầy. Trong khi đó, mầu lam hay mầu khói hương
lại rất thông dụng với người tu hành các nước như Trung-Quốc,
Triều-Tiên, Việt-Nam. Phật giáo Nhật-Bản tùy theo mỗi tông phái và
cấp bậc của họ mà mầu sắc y phục cũng thay đổi. Theo phái
Thiền-tông, mầu đem rất thông dụng, và các mầu vàng, tím, xanh lá
mạ cũng dùng cho y phục lúc hành lễ. 

Câu nói :
“Chiếc áo không làm nên thầy tu” thì mầu sắc của y phục
cũng chỉ là trên mặt hình thức và thói quen của mỗi dân
tộc. 

Việc quan trọng và
cần thiết đối với người học Phật là nghiên cứu giáo điển
để cầu đạt ngộ chân lý, còn hình thức chỉ là sự tướng mà
thôi. 

19.- 
Phẩm Phục Của Tăng Sĩ Phật Giáo Ra Sao ?  (^)

Phẩm phục là áo
dùng khi hành lễ và người Tăng sĩ gọi là chiếc y và cái áo
hậu (áo mặc trong). 

Có 3 loại y như
sau  : 

– Y năm điều :
Vải may y cắt thành từng ô ráp lại, mỗi ô hình chữ nhật dài
và ngắn xen kẻ nhau trên toàn thể chiếc y chia thành 5 đường dọc
và 2 đường ngang (chữ nhật dài 40 cm x 20 cm, khung chữ nhật ngắn 30
cm x 20 cm). 

– Y bảy điều :
Trên toàn thể chiếc y chia thành bảy phần dọc và 3 phần vải cắt
ngang 2 khung dài 1 khung ngắn. Tiếng Phạn gọi là Uất-đa-la-tăng và
tiếng Trung-Hoa dịch là Thượng-trước-y : Cái y ở ngoài và mặc
lúc làm lễ trong chùa. 

– Y chín điều :
Gồm 9 khung dọc và 3 khung ngang với 2 mãnh hình chữ nhật dài liền
nhau rồi tiếp theo một mãnh ngắn trên toàn thể chiếc y, gọi đây
là Tăng-già-lê cũng dùng trong việc lễ bái, khi đi đường hoặc
các cuộc gặp gỡ quan trọng. Ngoài 3 loại phẩm phục, người Tăng
sĩ còn 2 loại y phục nữa là y 12 điều và y 25 điều. Y 9 điều gọi
là hạ phẩm của đại y, y 12 điều là trung phẩm và y 25 điều là
đại phẩm của đại y. Y 25 điều hay y bách nạp gồm có 100 mãnh vải
khác màu sắc kết lại mà thành. Người Tăng sĩ coi chiếc y như
mạng sống, vì y pháp bất ly thân. Do đó, lúc đi xa, khi có công
việc cần cấp họ đều mang y theo bên mình để tùy cơ ứng pháp, Vì
Phật pháp bất ly thế gian pháp. 

Chiếc y là ruộng
phước đức để hàng Phật tử gieo trồng vào mãnh vườn của
ngôi nhà Phật giáo, nên người mang y không thể không cẩn trọng
giữ gìn. 

20.- 
Tăng Già Có Phải Là Tăng Sĩ Lớn Tuổi Không ?  (^)

Tăng-già không
có nghĩa là các vị tu hành đã lớn tuổi như có một số người
giải thích. Danh từ Tăng-già, chư Tăng hay chúng Tăng chỉ một đoàn
thể hòa hợp từ 4 thầy Tỳ-kheo trở lên mới gọi được là
Tăng-già. 

Tăng-già còn
dùng chỉ các tu sĩ Phật giáo có học thức, đạo đức và giữ gìn
giới luật của Phật Tổ được thanh tịnh, trọn vẹn không sái phạm.
Chư Tăng sống chung nhau trong cùng một tự viện có sự hòa hợp
nhường nhịn nhau từ lời nói, ý nghĩ, hành động, nhờ đó có
thể giải quyết được mọi tranh chấp, cải vả … vô ích để cùng
nhau răn nhắc tu hành giới đức trang nghiêm, ngỏ hầu thực hành
Phật giáo một cách đầy đủ theo phương pháp khoa học và sau đem áp
dụng giáo lý vào đời sống xã hội. Những Tăng sĩ ưa tranh chấp,
ngã mạn, tự cao không còn đủ tư cách xứng đáng để gọi là
Tăng-già được nữa, vì chính bản thân các Tỳ-kheo ấy đã không
có sự hòa hợp chung với các bằng hữu đồng tu khác thì việc
hòa mình của họ với tín đồ khó thành tựu được. 

Ngoài ra Tăng-già
không có nghĩa hòa hợp trong phạm vi đoàn thể chư Tăng mà nó còn
chỉ cho cái cung cách gương mẫu, đạo đức nơi họ đối với hàng
Phật tử tại gia nữa. Có người lấy làm thắc mắc rằng một thầy
Tỳ-kheo trụ trì trong một ngôi chùa thì không đủ tư cách để gọi
được Tăng-già chăng ? Như đã nói ở trên, nhưng riêng cá nhân
vị ấy cũng đủ tác phong đạo đức để cho hàng Phật tử cung kính,
học hỏi. Nếu trong trường hợp chỉ có một Tăng sĩ độc nhất thì
chỉ gọi được Tăng sĩ hoặc tu sĩ mà không thể xưng Tăng-già
được, vì chưa đủ số chúng Tăng trong phép hòa hợp. 

Nơi nào có chư
Tăng cùng nhau tu học và giữ gìn giới hạnh thật trang nghiêm, nơi
đó chứng tỏ đạo Phật được hưng thịnh và giáo pháp Phật-Đà
được xiển dương sâu rộng trong quần chúng để nhiều người có
cơ hội tu học. 

 21.-  La Hán Là Quả Vị Thứ Mấy Trong Việc Tu
Chứng ?  (^)

La-hán nói cho đủ
là A-la-hán (Arahan), quả vị tu chứng cao tột đỉnh của hàng
Tiểu-thừa Phật giáo. 

Trong 4 quả vị
Thánh của bậc Tiểu-thừa là Tu-đà-hoàn, (mới nhập vào dòng
Thánh gọi là Dự-lưu), Tư-đà-hàm (còn một lần sanh trở lại thế
gian nữa nên gọi là Nhất-lai), A-na-hàm (phiền não hoặc nghiệp đã
đoạn trừ và không vào đời nầy nữa ở kiếp sau gọi là
Bất-hoàn) và A-la-hán (không còn bị dòng sanh tử chi phối nên gọi
là Bất-sanh). A-la-hán có 3 nghĩa : 

1- Sát-tặc : Tức
là đoạn diệt tất cả giặc phiền não nơi tự thâm tâm và giặc
ngoại cảnh. 

2- Ứng-cúng : Bậc
đã giác ngộ có thể thọ nhận của trời người cúng dường. 

3- Bất-sanh : Tức
nhập Niết-Bàn vĩnh viễn không còn thọ quả báo trong vòng sanh tử
nữa. 

A-la-hán còn gọi
Bích-chi-Phật, vì hàng Tiểu-thừa chí đạt tới quả vị tu chứng
cuối cùng là A-la-hán mà thôi. Ngoài ra, 18 hình tượng La-Hán
được thờ trong một số các chùa là chững vị nào ? Đó là

1-
Tân-Đỗ-La-Bạt-La-Đọa-Xà tôn giả 

2-
Tân-Đầu-Lư-Phả-La-Đọa tôn giả 

3-
Ca-Nặc-Ca-Phạt-Tha tôn giả 

4- Tô-Tần-La-Dà
tôn giả 

5- Nặc-Cự-La tôn
giả 

6- Bạt-Đà-La tôn
giả 

7- Ca-Lý-Ca tôn
giả 

8-
Phạt-Xà-La-Phất-Đa-La tôn giả 

9- Thú-Bác-Ca tôn
giả 

10- Bán-Thát-Ca
tôn giả 

11- La-Hầu-La tôn
giả 

12- Na-Già-Tê-Na
tôn giả 

13- Nhơn-Yết-Đà
tôn giả 

14- Phạt-Na-Bà-Tư
tôn giả 

15- A-Thị-Đa tôn
giả 

16-
Chú-Trà-Bán-Thác-Ca tôn giả 

17-
Châu-Lợi-Bàn-Đặc (Châu-Lợi-Bàn-Đà) tôn giả. 

18- Khánh-Hữu
(Nan-Đề-Mật-Đa-La) tôn giả. 

Những vị La-hán
thường được nhắc tới tên là ngài Tân-Đầu-Lư tôn giả, ngài
Châu-Lợi-Bàn-Đà hay ngài Nan-Đề-Mật-Đa tôn giả. Kinh Trung-A-Hàm
có nói về sự tích của các vị A-la-hán nầy. 

22.-
Phật Học Viện Và Phật Học Đường Khác Hay Giống Nhau ?  (^)

Nơi nào chư Tăng
hay Ni cùng nhau tập trung lại một chỗ để tu học dưới sự lãnh
đạo của một Ban-giám-đốc gọi là Phật-Học-Đường. 

Nhìn tổng quát ta
vẫn tưởng rằng giữa Phật-Học-Viện và Phật-Học-Đường giống
nhau, nhưng phân tích để tìm hiểu ta sẽ thấy sự khác nhau.
Phật-Học-Đường vốn có một lịch sử lâu dài như
Phật-Học-Đường chùa Quán-Sứ Hà-Nội, Phật-Học-Đường
Báo-Quốc (Huế), Phật-Học-Đường Lưỡng-Xuyên (Vĩnh-Bình).
Phật-Học-Đường chỉ cho nơi nào có từ 10 Tăng sĩ sinh hoạt trở
lên và tổ chức thành lớp học với một ban giảng huấn hẳn hoi,
cũng như giảng đường, trai đường, thiền đường và chánh điện
thờ Phật nơi đó gọi là Phật-Học-Đường. Ngoài ra, việc giáo
dục ở trong các Phật-Học-Đường phải theo một hệ thống giáo dục
thuộc Giáo-Hội, tức là có chia ra thành nhiều cấp bậc từ thấp
đến cao như : Sơ-đẳng, Trung-đẳng và lớp Cao-đẳng Phật-giáo. Trong
khi đó, Phật-Học-Viện cũng có lối tổ chức giống nhau, nhưng có
tính cách quy mô rộng lớn hơn nhiều. Phật-Học-Viện chỉ mới xuất
hiện sau nầy vào thập niên 1960-1970 như Phật-Học-Viện Hải-Đức
(Nha-Trang), Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm (Sàigòn), Phật-Học-Viện Nalanda
(Ấn-Độ) … là những nơi có thể dung nạp được từ 50 Tăng sinh
trở lên đến 300 Tăng sinh trở lại. Trong lịch sử Phật giáo
Việt-Nam có lẽ lần đầu tiên tại Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm có
tới con số dưới 300 tăng sinh cùng nhau ở chung tu học
(1964-1965). 

Ngoài ra,
Phật-Học-Viện còn theo chương trình giáo dục song phương, tức là
ngoài Phật học ra, chư Tăng còn theo học cả chương trình của bộ
giáo dục nữa. Sau khi chư Tăng tốt nghiệp Trung-đẳng Phật giáo,
đồng thời cũng tốt nghiệp Trung-học đệ nhị cấp, nếu tiếp tục
việc học họ sẽ vào các Đại-học ngoài đời hay Đại-học Phật
giáo hoặc theo học ở một lớp cao đẳng Phật học chuyên khoa. 

Phật-Học-Viện và
Phật-Học-Đường đều là những nơi đào tạo tăng tài để cung
ứng cho nhu cầu Phật sự những cán bộ trung kiên của Phật
giáo. 

23.- 
Nhị Giáo Là Gì ?  (^)

Danh từ nhị giáo
do tông Chân-ngôn Thiên-Thai phân biệt từ Hiển-giáo và Mật-giáo
mà thành nhị giáo. 

Dựa vào giáo
pháp của đức Phật Thích-Ca mà thành lập Hiển-giáo hay Mật-giáo
hay tiệm và đốn-giáo. Căn cứ vào đâu để chia ra tiệm và đốn ?
Các vị Bồ-Tát thuộc hàng Đại-thừa trực tiếp lãnh hội giáo
pháp của đức Phật để tu hành và được giải thoát ngay trong
đời nầy gọi là đốn-giáo, trong khi đó hàng Tiểu-thừa y cứ
vào các kinh điển tu tập tức là tự tu tự độ, do đó việc giải
thoát có phần chậm hơn gọi là tiệm-giáo. Tiệm có nghĩa là dần
dần theo cấp độ của bài tính cộng. 

Những nhà
Phật-học Trung-Quốc còn chia thành Nội-giáo và Ngoại-giáo. Phàm phu
chúng ta muốn thoát ly khỏi tam giới cần phải nương vào giáo pháp
thực hành gọi là Nội-giáo. Các bậc Bồ-Tát tu theo các pháp
lục-độ vạn-hạnh (xem bài riêng) để thoát được ba cõi gọi là
Ngoại-giáo. Ngài Đàm-Vô-Sấm đời Tây-Tấn còn chia nhị giáo như
sau : Bán-tự-giáo và mãn-tự-giáo cũng để chỉ phiền não và
Bồ-đề vậy. 

Theo như kinh
Pháp-Hoa Huyền-Nghĩa lại chia làm Biên-giáo và Viên-giáo hay Quyền
và Thật. Nhưng nếu căn cứ vào Luận Chỉ Quán lại chia
thế-gian-giáo và xuất-thế-gian-giáo. Theo Luận Đại-Thừa
Nghĩa-Chương thì gọi liễu-nghĩa và bất-liễu-nghĩa, gọi là nhị-giáo
để chỉ cho sự giải thoát của Đại-thừa và Tiểu-thừa. 

Sự lập luận tuy
có nhiều trình độ tu tập của các chúng đệ tử Phật, và do sự
đạt ngộ cao hay thấp để phần Đốn hoặc Tiệm, Quyền và Thật
v.v… 

Phật giáo cần
nhất ở thực hành, còn hình thức phân chia dù có nhiều hơn nhị
giáo đi nữa, cái tinh thần giải thoát và giáo pháp của đức
Phật không vì đó mà tăng hay giảm. 

24.- 
Bảy Cách Lễ Phật Ra Sao ?  (^)

Lễ Phật có nhiều
cách khác nhau, nếu để ý phân biệt ta sẽ thấy rõ ý nghĩa của
mỗi cách như dưới đây : 

– Lễ Phật vì tâm
cống cao ngã mạn 

– Lễ Phật để
cầu danh 

– Đem cả thân tâm
lễ Phật 

– Lễ Phật do lòng
thanh tịnh 

– Lễ Phật để
cầu nhập vào cõi pháp giới 

– Thành tâm tu
quán các pháp mà lễ Phật 

– Vì thật tướng
bình đẳng nên lễ Phật. 

Hai cách lễ đầu
tiên do tâm trí tạp loạn của những người chưa thật tâm trong việc
lễ bái đúng nghĩa. Có nhiều lý do khiến người lạy Phật mà ngay
chính nơi thâm tâm họ không thật sự cung kính, với mục đích khác
ngoài việc phát tâm tu hành theo Phật đạo. Còn 5 cách lễ sau mới
thật sự là người có thật tâm lễ Phật trong cung cách của kẻ tu
hành học đạo. Cách lễ Phật cung kính nhất là từ đầu mặt, cho
tới chân tay và cả tâm tư đều chí thành đảnh lễ mới đúng
nghĩa lạy đối với người thực hành Phật giáo. 

Hành giả muốn tu
có kết quả, tức là muốn đạt đến giải thoát, việc trước tiên
trong khi lạy Phật phải thật tâm để tỏ “sự” rồi mới
đạt đến lý sâu xa. Nếu còn nuôi dưỡng tâm cống cao ngã mạn hay
để cầu được tiếng tăm mà lễ Phật, thì việc lễ bái đã không
có lợi ích gì lại còn làm trò cười cho người khác nữa. 

Lễ Phật chỉ có
một lòng chí thành cung kính và tập trung tư tưởng trong chánh niệm
mới đạt được lợi ích thiết thật cho người thực hành. 

25.- 
Mười Đại Nguyện Trong Bài Sám Phổ Hiền Là Gì ?  (^)

Tại các chùa chư
Tăng mỗi buổi sáng, sau khi tụng kinh Lăng-Nghiêm xong, thường tụng
bài Sám-Thập-Nguyện của ngài Phổ-Hiền. Mười nguyện đó là gì

1- Kính lễ chư
Phật. 

2- Xưng tán các
đức Như-Lai 

3- Cúng dường chư
Phật 

4- Sám hối tội
lỗi 

5- Vui, ưa làm việc
công đức 

6- Thỉnh cầu chư
Phật chuyển nói chánh pháp độ sanh. 

7- Cầu Phật an trụ
lâu nơi đời. 

8- Thuận theo Phật
Pháp để tu hành. 

9- Hòa thuận, lăn
xã vào đời để làm việc lợi ích chung. 

10- Hồi hướng
công đức đến tất cả mọi loài chúng sanh. 

Trong 10 lời phát
nguyện trên, gồm có 5 phần quang trọng, gọi là ngũ hối (5 điều ăn
năn hối lỗi) được chia thứ tự nhau sau : 

1- Nguyện thứ 1-3 :
Quy mạng tức đem thân mạng nương về với Phật, Pháp, Tăng. 

2- Sám hối tội
chướng cho việc ác tiêu trừ. 

3- Vui theo việc
thiện của người khác làm. 

4- Nguyện thứ 6-8 :
Cầu thỉnh Phật nói pháp và nguyện theo học. 

5- Nguyện thứ 9-10
: Hồi hướng công đức lành đến mọi loài chúng sanh đều được
lợi lạc, an vui. 

Người Tăng sĩ
sống trong Tự Viện luôn luôn tâm niệm những ý nguyện cao cả độ
sanh và thực hành lòng đại bi như ngài Phổ-Hiền vậy. 

26.- 
Nhị Môn Là Gì ?  (^)

Có rất nhiều lý
luận và định nghĩa về danh từ nhị môn. Nhị môn là hai cửa theo
nghĩa thông thường. Còn theo Phật giáo, nhị môn là gì ? sau đây là
một số những định nghĩa : 

– Cửa Thánh đạo
và cửa Tịnh-độ. 

– Cửa che lập
(phàm tục) và cửa mở rộng (Thánh môn) 

– Cửa lưu chuyển
và cửa hoàn diệt. 

– Cửa chân như
và cửa sanh diệt. 

– Cửa phước
đức và cửa trí huệ. 

Trở lên qua
những cách phân chia hai cửa cho thấy rằng cửa của phàm phu và
cửa của bậc Thánh nhân là một sự đối nghịch nhau. Nếu biết tu
sửa những hành vi thô xấu của con người trần thế, ta có thể
từ nơi phàm mà vào dòng Thánh là hai lối đi, tuy không có hình
tướng nhưng luôn mở rộng để đón tiếp những người nào chuyên
cần tinh tấn trong việc tu niệm. Tùy theo người chọn phương pháp
(pháp môn) tu để đạt được chân lý mà có phân ra thành nhiều
nghĩa khác nhau, thật ra cũng chỉ để phân biệt giữa kẻ phàm tục
và người đã giác ngộ mà thôi. Vì tất cả đều chỉ sự giải
thoát và mê lầm vậy. Con người khi chưa tu hành tức còn những
phiền não, nhiễm trước gọi là phàm phu và những kẻ đã dày
công tu niệm lại tìm thấy được niềm an vui, tự tại, đó là các
bậc siêu phàm hay là Thánh nhân. 

Như vậy, nhị môn
là chỉ cho hai cánh cửa đang mở tung ra để cho người nào khéo xếp
đặt có thể bước vào được ngôi nhà rộng của chánh pháp, còn
như đối với kẻ lơ là sẽ bị lạc đường đi vào những ngỏ
ngách tối tăm nguy hiểm của đọa lạc, tối tăm. 

27.- 
Bụt Là Gì ? Danh Từ Nầy Ở Đâu Hay Dùng ?  (^)

Người bình dân
Việt-Nam gọi Phật là Bụt. Chữ Bụt có lẽ do chữ Buddha, Buddhi đọc
ra có nghĩa là giác ngộ, sáng suốt. Tiếng Bụt cũng còn có nghĩa
là hiền lành, từ bi như Bụt. 

Phương ngôn còn
ví von : Để làm hòn đất, cất lên ông Bụt. Ngoài ra, chúng ta cũng
thường nghe những câu tục-ngữ, ca-dao nói đến danh từ Bụt rất
phổ thông như sau : 

– Hiền như
Bụt. 

– Đi với Bụt mặc
áo cà-sa, 

– Đi với ma mặc
áo giấy. 

– Gần chùa gọi
Bụt bằng anh v.v… 

Đó là những
cách nói quen thuộc mà người bình dân ưa dùng một cách tự
nhiên. Chữ Bụt nghe có vẽ gần gũi và thân thiết với người
dân quê hơn là Phật. Tuy nhiên, Bụt hay Phật cũng đều có nghĩa là
những bậc đã giác ngộ hoàn toàn về cả 3 khía cạnh : Tự-giác,
giác-tha và giác-hạnh viên-mãn, tức là cả hai sự giác ngộ bên
trên hoàn toàn tròn đầy vậy. Lòng từ bi của Phật cũng vô
lượng vô biên rộng tỏa khắp nơi để cứu giúp cho muôn loài vạn
vật đều được lợi ích an vui. Như vậy, danh từ Bụt đã xuất
hiện lâu lắm trong giới bình dân, nên đã thâm nhập vào trong tâm
não của mọi người như chất keo hay sợi dây vô hình gắn liền
với đời sống hằng ngày. 

Trong văn chương
cổ điển và người miền quê ưa dùng chữ Bụt, trong khi đó tiếng
Phật vẫn thông dụng hơn trong mọi giới. 

28.-
Thập Huyền Môn Hay Thập Huyền Duyên Khởi Lý Sự Vô Ngại Pháp
Môn Là Gì ?  (^)

Lập luận của
Đại-thừa Phật giáo đưa người tu hành đạt tới chỗ chứng đắc
cần hiểu rõ cả sự và lý mà 10 pháp môn huyền diệu sau đây là
cửa ngỏ để đi vào ngôi nhà Chánh-pháp của chư Phật. 

Có nhiều cách
trình bày 10 pháp môn, song cách phổ thông hơn cả mà nhiều người
biết tới là : 

1.- Đồng thời cụ
túc tương ưng môn (các pháp tương ứng hòa hợp) 

2.- Quảng hiệp tự
tại vô ngại môn (rộng, hẹp đều tự tại không gì ngăn ngại) 

3.- Nhất đa tương
dung bất đồng môn (một và tất cả đều tương dung nhau) 

4.- Chư pháp
tướng tức tự tại môn (thật tướng của các pháp đều như
vậy) 

5.- Bí mật ẩn
hiện câu thành môn (mật, hiển đều thành hình sự vật) 

6.- Vi tế tương dung
an lập môn (mọi vật dù nhỏ đến đâu cũng hình thành tự
nhiên) 

7.- Nhân Đà-la-ni
cương cảnh giới môn (Cảnh giới Đà-la-ni là cảnh bao la vô tận,
các bậc giác ngộ chứng đắc và lấy đó làm khuôn mẫu cho
người tu hành) 

8.- Thát sự hiển
pháp sanh giải môn (nương vào sự vật để đạt tới lý hầu giải
thích sự vật) 

9.- Thập thế cách
pháp dị thành môn (các pháp môn tu tập khác nhau phải trải qua
nhiều đời mới đạt được) 

10.- Chủ bạn viên
minh cụ đức môn (không còn phân biệt chủ và khách nữa mà
đồng viên thành các đức tánh đầy đủ) 

Nói tóm lại,
Mật-giáo căn cứ vào lập trường theo lý chân không của kinh
Bát-Nhã, sắc tức thị không, không tức thị sắc … và triển khai
tư tưởng nầy mà lập thành 10 cửa huyền diệu để dẫn hành giả
đạt tới lý mầu của Đại-thừa Phật giáo. 

*********** 

Sách
tham khảo : 

– Tư-Tưởng Việt-Nam của Nguyễn-Đăng-Thục. Nhà xuất
bản Khai-Trí, Sàigòn 1964. 

– Tục
ngữ, ca dao, dân ca Việt-Nam của Vũ-Ngọc-Phan. Nhà xuất bản Khoa-Học
Xã-Hội, 1978. 

 29.-  Pháp Quán Ngũ Đình Tâm Là Gì ?  (^)

Ngũ-đình-tâm-quán
là một pháp tu quán tưởng để cho tâm dừng các vọng niệm mà
hàng Tiểu-thừa thực hành trong 5 pháp quán. Đây là quả vị đầu
tiên hàng Thanh-văn chứng nhập có 2 loại : 

1.- Bất-định-quán
: Quán sát tướng trạng của các cảnh giới đều bất tịnh để làm
đình chỉ việc tham dục, đối với người tu có tâm nhiều tham
trước. 

2.- Từ-bi-quán :
Hướng về các loài hữu tình chúng sanh đều có sự liên quan với
nhau, là một pháp làm dứt tâm sân hận. 

3.-
Nhân-duyên-quán : Quán pháp 12 nhân duyên liên tục cả quá-khứ
hiện-tại và tương-lai để đình chỉ ngu si đối với người tu hành
nhiều ngu tối. 

4.-
Giới-phân-biệt-quán : Theo các pháp phân ra 6 giới hay 18 giới là
pháp làm dứt ngã kiến áp dụng cho người tu kiến chấp sai
lầm. 

5.- Sổ-tức-quán :
Cách đếm và điều hòa hơi thở để làm cho tâm loạn động trở
thành thanh tịnh. Còn một lối phần ngũ-đình-tâm như sau : Bất-định,
từ-bi, nhân-duyên, niệm Phật và sổ-tức-quán (đếm hơi
thở). 

Nhờ quán sát kỹ
các tướng trạng hay mặt thật của vũ trụ muôn loài mà tu tập
đạo giải thoát để thấy rõ chân lý, thật tánh của các pháp do
tâm đã gạn lọc sạch vọng niệm. Hành giả trải qua 5 phép quán
niệm như thế gọi là 5 cách dừng tâm tạp niệm. 

Quán sát đến khi
nào tâm ta lắng trong như mặt nước không bị cáu bợn và không
còn vẫn đục nữa, lúc đó là giai đoạn tỏ rạng được lý mầu
của đạo sáng tỏa mười phương. 

30.- 
Thập Mục Ngưu Đồ LÀ Gì ?  (^)

Thường thường
tại các trung tâm tu thiền, nơi vách tường có trưng bày 10 bức
họa chăn trâu. Cái tâm ta buông lung theo ngoại cảnh và nhờ tu
thiền định mà hàng phục được, nhưng phải trải qua 10 giai đoạn như
người chăn dắt con trâu hung dữ : 

1- Tìm trâu 

2- Thấy được
dấu chân trâu 

3- Nhận ra đúng
là trâu 

4- Bắt trâu trở
lại 

5- Trâu đã bị xỏ
mũi 

6- Cưởi trên lưng
trâu trở về nhà 

7- Quên trâu, chỉ
còn thấy bóng dáng người chăn 

8- Cả người và
trâu đều không ai cần để ý tới nữa. 

9- Trở về với
nguồn gốc, tức tìm lại bản chân tâm. 

10- Xông xáo đi
vào đời một cách an nhiên không trở ngại. 

Mười bức họa
tượng trưng nầy không rõ do ai tạo ra và có từ lúc nào, nhưng
căn cứ vào tranh vẽ hội họa do Quách-Am Thiền-sư (?) làm ra đồ
hình và có kèm theo 10 bài tụng để giải thích rõ mỗi giai đoạn
trong bức họa. Còn nếu ta khảo cứu kỹ ở các bộ ngữ lục thì 10
bức họa chăn trâu do ngài Thanh-Cư Thiền-sư tác (điều nầy cũng
chưa lấy gì làm chắc chắn), vì 10 bức họa do ngài Thanh-Cư tạo khác
với nét vẽ ở những đồ hình ngày nay. Song căn cứ vào thứ
tự hình thức trong các hình vẽ thì chính ngài Quách-Am đã sửa
đổi lại các bức họa cho phù hợp với các giai đoạn chuyển biến
của tâm để lưu hành cho tới ngày nay chăng ? 

Nhìn vào 10 bức
tranh, chúng ta thấy có sự tiến bộ rõ rệt trong việc tu tập vì
hành giả phải vận dụng rất nhiều công phu. Con người từ chỗ vô
minh (lúc đi tìm trâu), tìm thấy dấu chân và nhận ra không lầm
trâu, đến chỗ hàng phục được mọi khó khăn (ở bức họa số 4
và 5) của dục vọng, phiền não khuấy động từ tâm thức. Từ đó
hành giả cần phải gia công tu tập mới đạt được trạng thái an
tỉnh tâm hồn (hình 6) mà không còn bị giặc phiền não chi phối nữa.
Đến đây là giai đoạn đã khá vững vàng trên đường tu tập và
có thể hòa nhập vào chân tâm, tức tìm lại được bản lai diện
mục của mình (bức họa 8 và 9). Cuối cùng là nắm được trọn vẹn
bí pháp để lăn xả vào đời cứu độ chúng sanh mà không ngại
bất cứ một chướng duyên nào có thể ngăn chặn được chí
hướng của ta cả. 

Đó là tất cả ý
nghĩa của 10 bức họa. Người tu hành chịu khó nhìn vào nơi mỗi
bức họa quan sát và suy nghĩ sẽ rõ được ý nghĩa sâu sắc trong
việc tu thiền cũng chẳng khác gì người tìm trâu vậy. 


o0o

Mục Lục |
Chương 1 |
Chương 2 |

Chương 3
|

Chương 4 Chương 5|

 Chương 6
|
Chương 7
|
Chương 8
|
Chương 9


o0o

| Thư
Mục
Tác
Giả
|

— o0o —

Trình
bày
:
Nhị
Tường

Cập
nhật
ngày:
01-05-2002

Post Comment